Mỹ phẩm và những thành phần chính

Mỹ phẩm và những thành phần chính

Một số thành phần chính thường xuất hiện trong mỹ phẩm như là nước, chất nhũ hóa, chất bảo quản, chất làm đặc, chất giữ ẩm, phẩm màu và mùi hương. Các thành phần có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo, nhưng bất cứ các ảnh hưởng nào lên sức khỏe đều phụ thuộc chính vào nguyên liệu làm ra chúng.

Liều lượng của các chất hóa học trong mỹ phẩm đều đã được cân nhắc sao cho nguy cơ đến sức khỏe là thấp nhất.

Mỹ phẩm không phải là một phát minh hiện đại. Con người đã biết sử dụng rất nhiều chất để cải thiện vẻ bề ngoài và làm cho nó nổi bật cách đây khoảng 10,000 năm hoặc hơn.

Mỹ phẩm thường chứa những chất gì?

Một sản phẩm có thể chứ từ 15 đến 50 thành phần. Một ngày mỗi phụ nữ có thể sử dụng từ 9-15 sản phẩm chăm sóc cơ thể, nếu tính luôn nước hoa, mỗi ngày có khoảng 515 chất hóa học tiếp xúc với da họ thông qua việc sử dụng mỹ phẩm.

Nhưng chính xác là chúng ta đã đưa những gì lên da mình? Những cái tên dài trên nhãn thành phần có nghĩa là gì và nó có tác dụng như thế nào? Mặc dù mỗi sản phẩm đều có công thức khác nhau, nhưng hầu như các mỹ phẩm chứa những thành phần thông dụng sau: nước, chất nhũ hóa, chất bảo quản, chất làm đặc, chất làm mềm da, phẩm màu, mùi hương và chất ổn định pH.

  • Nước

Nếu sản phẩm của bạn đựng trong chai, rất có khả năng là thành phần đầu tiên trong list sẽ là nước. H2O là dạng nước cơ bản xuất hiện hầu như trong tất cả các mỹ phẩm bao gồm kem, lotion, makeup, lăn khử mùi, dầu gội đầu và dầu xả. Nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình bào chế, như là một chất hòa tan, hòa tan các thành phần khác và giúp đồng nhất nhũ tương.

Nước được sử dụng trong mỹ phẩm không giống như nước mà bạn sử dụng từ vòi hàng ngày. Nó phải là nước siêu tinh khiết nghĩa là không có vi khuẩn, chất độc hoặc các chất ô nhiễm khác. Bởi lý do đó mà trên nhãn chúng ta thường thấy nước cất, nước tinh khiết hoặc aqua.

  • Chất nhũ hóa

Là những chất giúp giữ các thành phần không giống nhau (như là dầu và nước) không bị tách lớp. Rất nhiều mỹ phẩm được sản xuất dựa trên sự nhũ hóa nghĩa là một lượng nhỏ dầu phân tán vào nước hoặc là một lượng nhỏ nước phân tán trong dầu. Vì dầu và nước không hòa lẫn vào nhau dù cho bạn ra sức lắc, trộn hoặc khuấy như thế nào đi nữa.

Chất nhũ hóa được thêm vào hỗn hợp đó để thay đổi sức căng bề mặt giữa dầu và nước, tại ra một thể đồng nhất. Các chất nhũ hóa thường được sử dụng trong mỹ phẩm như là polusorbate, laureth-4 và kali cetyl sulfate.

  • Chất bảo quản

Là một thành phần rất quan trọng. Chất bảo quản được thêm vào mỹ phẩm để kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm và ngăn ngừa sự phát triển của các vi sinh vật như là vi khuẩn, nấm những tác nhân có thể làm hư hỏng sản phẩm và gây hại cho người sử dụng. Vì hầu hết vi sinh vật đều sống trong môi trường nước nên các chất bảo quản được sử dụng cũng phải tan trong nước.

Các chất bảo quản sử dụng trong mỹ phẩm có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo và được sử dụng dưới các dạng khác nhau tùy vào công thức của sản phẩm. Một số yêu cấu nồng độ trong khoảng 0,01% trong khi một số khác lại cao hơn 5%. Một số chất bảo quản thường được sử dụng là paraben, benzyl alcohol, acid salicylic, formaldehyde và tetrasodium EDTA.

  • Chất làm đặc

Các chất làm đặc giúp cho sản phẩm có một độ đặc đồng nhất nhất định. Chúng có thể thuộc 4 nhóm sau:

Chất làm đặc lipid thường có dạng rắn ở nhiệt độ phòng nhưng có thể ở dạng lỏng và có thể thêm vào các mỹ phẩm dạng nhũ tương. Chúng hoạt động bằng cách đưa thể trạng đặc tự nhiên của chúng vào công thức bào chế. Một số chất làm đặc như cetyl alcohol, acid stearic và sáp carnauba.

Chất làm đặc từ tự nhiên, chúng là các polymer tan trong nước, trương phồng lên và làm tăng độ nhớt của sản phẩm. Mốt số chất như là hydroxyethyl cellulose, guar gum, xanthan gum và gelatin. Các loại mỹ phẩm quá đặc có thể được pha loãng với dung môi như là nước hoặc alcohol.

Chất khoáng làm đặc cũng có nguồn gốc tự nhiên, cũng giống như những chất làm đặc khác, chúng tan trong nước và dầu làm tăng độ nhớt của sản phẩm nhưng đem lại một kết quả khác với khi sử dụng gum. Một số chất khoáng làm đặc thông thường như magnesium aluminium silicate, silica và bentonite.

Nhóm cuối cùng là chất làm đặc tổng hợp. Chúng thường được sử dụng trong các sản phẩm lotion và kem. Những chất làm đặc nhân tạo phổ biến như carbomer, polymer acid acrylic tan trong nước và có thể sử dụng trong các gel làm sạch da. Một số chất làm đặc khác như cetyl palmitate và ammonium acryloyldimethyltaurate.

  • Chất làm mềm

Các chất làm mềm da bằng cách ngăn mất nước. Chúng được sử dụng trong nhiều sản phẩm như là son môi, lotion và kem. Một số chất làm mềm từ tự nhiên và tổng hợp như là sáp ong, dầu oliu, dầu dừa và lanoin, petrolatum, dầu khoáng, glycerin, kẽm oxid, butyl stearate và diflycol laurate.

  • Các phẩm màu

Một bờ môi đỏ, màu mắt khói hay má hồng, chúng là mục tiêu của nhiều mỹ phẩm nhằm làm nổi bật hoặc cải thiện màu tự nhiên của cơ thể. Một lượng lớn các chất được sử dụng để cung cấp các dải màu cho các sản phẩm trang điểm. Các thành phần khoáng như là oxid sắt, mangan, oxid crom và bột than. Các phẩm màu tự nhiên có thể được làm từ thực vật như là bột củ cải tía, hoặc từ động vật như cánh kiến. Gần đây, các nhà sản xuất sử dụng đỏ carmin, chiết xuất cánh kiến hoặc màu đỏ số 4 tự nhiên.

Các phẩm màu có thể chia làm 2 nhóm: organic là nhóm các phân tử từ carbon và nhóm inorganic là các oxid kim loại. Hai phẩm màu organic chính là lake và toner. Phẩm màu lake được làm bằng cách kết hợp phẩm nhuộm với một chất không tan như alumina hydrate. Sự kết hợp này giúp cho phẩm nhuộm không tan trong nước, tạo ra các sản phẩm chống thấm nước và không trôi khi tiếp xúc với nước. Phẩm màu toner là một phẩm màu organic không kết hợp với bất cứ hợp chất nào khác.

Các phẩm màu inorganic từ oxid kim loại thì nhạt màu hơn các phẩm màu organic nhưng không bị ảnh hưởng bới nhiệt độ, ánh sáng và bền màu hơn.

  • Các chất làm mờ và làm sáng

Tác dụng làm mờ có thể được sáng tạo bằng rất nhiều nguyên liệu. Một trong số những chất thông dụng nhất là mica và bismuth oxyclorid.

Các sản phẩm làm từ mica chứa [KAl2(AlSi3O10)(F,OH)2] còn được gọi là mica trắng. Dạng tự nhiên của nó là những miếng mỏng hoặc là xay ra thành bột. Các phân tử nhỏ trong bột phản chiếu ánh sáng, chính điều đó tạo hiệu quả làm mờ thường thấy ở nhiều mỹ phẩm. Mica được phủ titanium dioxid lớp trắng khi nhìn thẳng nhưng tạo một dải óng ánh khi nhìn từ các góc khác.

Bismuth oxyclorid (BiClO) được sử dụng để tạo hiệu ứng xám bạc như ngọc trai. Hợp chất này tự nhiên được lấy từ khoáng bismoclite rất hiếm nhưng thường được tổng hợp và được biết đến với tên gọi ngọc trai nhân tạo.

Kích thước của các phân tử được sử dụng để làm nên màu ngọc trai hay làm mờ ảnh hưởng đến hiệu quả làm sáng của sản phẩm. Những phân tử nhỏ (15-60 micromet) thì bột mịn hơn và phủ tốt hơn. Những phân tử lớn hơn (lớn hơn 500micromet) thì bóng hơn và trong suốt hơn.

  • Mùi hương

Mùi hương của mỹ phẩm cũng rất quan trọng, dù cho mỹ phẩm đó hiệu quả như thế nào mà mùi của nó khó chịu thì người dùng cũng rất khó chịu. Những nghiên cứu về tiêu dùng đã cho thấy mùi hương là một trong những yếu tố mấu chốt khi người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm đó.

Hóa chất, cả tự nhiên và tổng hợp khi được cho vào mỹ phẩm đều tạo một mùi nhất định. Những sản phẩm không mùi có thể chứa các mùi khử giúp che đậy mùi của các hóa chất khác.

Từ mùi hương thường được dùng với nghĩa là các mùi tổng hợp. Những mùi hương được liệt kê trong danh sách thành phần có thể là đại diện cho hàng tá hoặc hàng trăm hợp chất hóa học để tạo nên mùi ấy. Các nhà sản xuất không liệt kê các thành phần chi tiết vì muốn bảo vệ bí quyết của mình.

Share this post


0983 346 631
Nhắn tin Facebook Zalo: 0983 346 631